Các nhà quản lý, chuyên gia chia sẻ kinh nghiệm trong công tác giảm TTĐN.
“Mục tiêu đến năm 2020, tỷ lệ TTĐN của EVN còn 6,5%. Đây là chỉ tiêu nhiều thách thức đòi hỏi sự nỗ lực cao của toàn Tập đoàn cũng như các đơn vị thành viên. Chính vì thế, EVN rất cần sự chia sẻ kinh nghiệm giữa các nước trong khu vực để từ đó có thể học hỏi, áp dụng vào thực tế trong điều kiện phù hợp với Việt Nam nhằm hoàn thành mục tiêu mà Chính phủ đưa ra”, ông Ngô Sơn Hải cho biết.
Ông Ngô Sơn Hải thông tin thêm, những năm qua, công tác giảm TTĐN được EVN đặc biệt quan tâm. Với sự nỗ lực của các đơn vị trong EVN và các giải pháp đồng bộ từ khâu đầu tư xây dựng đến quản lý sản xuất, quản lý vận hành, kinh doanh điện năng…tỷ lệ tổn thất điện năng toàn Tập đoàn giảm từ 10,15% năm 2010 xuống còn 7,57% năm 2016 và kế hoạch trong năm 2017 cố gắng phấn đấu TTĐN toàn Tập đoàn đạt 7,47%.
Ông Lê Việt Hùng – Phó Trưởng ban Kỹ thuật – Sản xuất (EVN) cho biết: Với hệ thống điện có tính đặc thù cao như Việt Nam, việc giảm TTĐN đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Trong đó cần rà soát lại năng lực truyền tải của các đường dây, xử lý triệt để tình trạng quá tải, hoàn thiện các sơ đồ đấu nối, bổ sung thiết bị đóng cắt, tăng cường liên kết giữa các TBA 110 kV, từ đó nâng cao độ tin cậy cung cấp điện, nâng cao độ linh hoạt trong vận hành. Rà soát, thống kê thiết bị lưới điện chất lượng thấp, tổn thất điện năng cao, có nguy cơ xảy ra sự cố để tăng cường theo dõi và lập kế hoạch thay thế.
Tăng cường công tác quản lý vận hành, bảo dưỡng, ngăn ngừa sự cố lưới điện. Trong đó lưu ý kiểm tra, xử lý triệt để vấn đề xâm phạm hành lang bảo vệ an toàn lưới điện, tiếp địa, các điểm tiếp xúc, cách điện của đường dây, thiết bị... không để các mối nối, tiếp xúc không tốt dẫn đến phát nhiệt (trên dây dẫn, cáp, đầu cực thiết bị...) gây sự cố và làm tăng TTĐN.
Các đơn vị cần mạnh dạn thử nghiệm sử dụng các loại vật tư, thiết bị công nghệ tiên tiến, độ tin cậy cao, tổn thất thấp; Đẩy mạnh trang bị và thực hiện vệ sinh cách điện hotline (không cắt điện); Hoàn thiện và tăng cường khai thác hệ thống SCADA ở các cấp điều độ, đẩy nhanh các dự án SCADA lưới điện phân phối.
Tăng cường quản lý TTĐN các tuyến dây, TBA. Thực hiện kiểm định, thay thế định kỳ công tơ, BU, BI theo quy định. Tăng cường sử dụng công tơ điện tử có khả năng đọc chỉ số từ xa, có độ chính xác cao. Chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng, kiểm tra xử lý nghiêm và tuyên truyền ngăn ngừa vi phạm sử dụng điện.
“Đặc biệt, để giảm TTĐN, việc hoàn thành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm thực hiện bám theo phụ tải, đảm bảo tiến độ, chất lượng và đồng bộ giữa các cấp điện áp. Thực hiện cải tạo, nâng cấp các đường dây, trạm biến áp đang mang tải cao, xây dựng thêm các công trình mới theo mục tiêu đến năm 2020 các đường dây tải điện không quá 50% công suất định mức, các trạm biến áp mang tải không quá 75% định mức, lưới điện đáp ứng tiêu chí N-1”, ông Hùng cho biết.
Phó Tổng Giám đốc EVN Ngô Sơn Hải phát biểu tại hội thảo.
Theo tính toán, trong giai đoạn 2016 - 2020, để phục vụ tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 6,5 - 7%/năm, tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm có thể lên đến hơn 11%. Điều này đòi hỏi yêu cầu đầu tư rất lớn về nguồn và lưới điện. Dự kiến trong giai đoạn 2016 - 2020, EVN sẽ đầu tư hơn 440.000 tỉ đồng. Trong đó, riêng phần lưới điện phân phối chiếm gần 180.000 tỉ đồng. Nguồn vốn đầu tư này nhằm mục tiêu đảm bảo cung cấp điện phát triển kinh tế xã hội trên đất nước và phục vụ đời sống của nhân dân. Quá trình đầu tư sẽ củng cố, phát triển lưới điện thông minh, góp phần giảm TTĐN.
Tại Hội thảo, ông Hou Yiming, chuyên gia đến từ Viện Điện lực (Trung Quốc) cho rằng: Trong quá trình truyền tải và phân phối điện, TTĐN xảy ra và không tránh khỏi tại tất cả các phần của lưới điện bao gồm đường dây, máy biến áp, tụ điện và các công tơ điện. Vì thế, biện pháp kỹ thuật để giảm TTĐN Trung Quốc áp dụng là giảm bán kính cấp điện, loại bỏ máy biến áp tổn thất cao, thay dây dẫn to hơn đồng thời tối ưu hóa phân bố công suất phản kháng trong lưới điện.
Trong khi đó, ông Chao Shun Chen – chuyên gia Công ty Điện lực Đài Loan cho rằng: Để giảm TTĐN, Công ty đã xây dựng và phát triển lưới điện thông minh với việc xây dựng hệ thống tự động phân phối gồm 3 loại cấu trúc vận hành: Cấu trúc mạch vòng đóng (áp dụng đối với các phụ tải quan trọng), cấu trúc mạch vòng hở và cấu trúc đơn giản (vùng nông thôn). Điều này đã giúp tỷ lệ TTĐN tại Đài Loan giảm từ 6,02% năm 1990 xuống còn 3,72% năm 2015, mức thấp nhất cho đến nay và thấp thứ 2 trên thế giới.
“Ngoài ra, việc sử dụng các thiết bị tự động hóa trên hệ thống điện đã giúp tăng độ tin cậy của hệ thống SAIDI bằng việc giảm thiểu thời gian mất điện của khách hàng từ 1 giờ xuống còn 2 phút. Việt Nam hoàn toàn có thể áp dụng công nghệ này và Công ty Điện lực Đài Loan sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm nhằm hỗ trợ các quốc gia trong việc giảm TTĐN”, ông Chao Shun Chen cho biết.